Kinh tế tư nhân cần một cú hích đột phá, để không bị “hụt hơi” trong quá trình phát triển
(CLO) Kinh tế tư nhân (KTTN) đang có dấu hiệu “hụt hơi” trong quá trình phát triển. Nguyên nhân bắt nguồn từ nhiều “nút thắt” như: nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của KTTN; thể chế và chính sách chưa thực sự công bằng và bao trùm;…
Phát biểu khai mạc và đề dẫn Tọa đàm chính sách “Các giải pháp đột phá tháo gỡ các điểm nghẽn phát triển khu vực KTTN” diễn ra hôm nay (15/8), GS.TS Nguyễn Thành Hiếu, Phó Giám đốc Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU) cho rằng khu vực KTTN đang có dấu hiệu “hụt hơi” trong quá trình phát triển.
Nguyên nhân bắt nguồn từ nhiều “nút thắt” như: nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của KTTN; thể chế và chính sách chưa thực sự công bằng và bao trùm; chưa có mô hình liên kết hiệu quả giữa các bộ phận cấu thành trong khu vực tư nhân, liên kết này còn yếu; Năng lực nội tại và khả năng tiếp thu nguồn lực phát triển còn yếu. Chất lượng đội ngũ doanh nhân còn hạn chế.

“Nếu không tháo gỡ kịp thời, những nút thắt này sẽ cản trở mục tiêu đưa KTTN trở thành động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”, vì vậy, cần có các giải pháp đột phá tháo gỡ điểm nghẽn để khu vực này phát triển”, GS.TS Nguyễn Thành Hiếu nêu vấn đề.
5 dấu hiệu hụt hơi
Dù vẫn giữ vai trò dẫn dắt về số lượng doanh nghiệp (DN), vốn và lao động nhưng khu vực KTTN đang có những dấu hiệu “chững lại” hay nói đúng hơn là đang có biểu hiện “hụt hơi” với các dấu hiệu:
Tốc độ tăng trưởng về số lượng DN, doanh thu, vốn đầu tư hay lao động của giai đoạn từ 2016 đến nay đang có xu hướng chậm dần so với giai đoạn từ 2011-2015, thậm chí thấp hơn khu vực DN FDI;
Hiện tượng DN không muốn lớn hay thậm chí “mini hóa” có xu hướng ngày càng gia tăng. Quy mô bình quân của DN tư nhân ngày càng nhỏ hơn nhiều so với DN nhà nước và DN FDI cả về vốn, lao động và doanh thu vẫn là phổ biến.

Hiệu quả kinh doanh (bảo gồm cả hiệu quả sử dụng nguồn lực và hiệu quả tài chính) của khu vực KTTN nhìn chung là thấp. Tỷ lệ số DN thua lỗ hàng năm chiếm gần 50% tổng số DN, cao hơn nhiều so với KTNN và FDI.
Các DNTN quy mô lớn còn quá ít ỏi, làm hạn chế khả năng tận dụng lợi thế nhờ quy mô, không đủ tạo ra lực hút để thực hiện vai trò dẫn dắt toàn bộ lực lượng DN tư nhân Việt Nam trong quỹ đạo phát triển của họ như các “sếu đầu đàn”.
DN quy mô vừa rất thiếu nên không thể đóng được vai trò trung gian giữa DN nhỏ và siêu nhỏ với DN lớn và ít có khả năng chuyển tiếp lên quy mô lớn. Hiện tượng này khiến quá trình kết nối giữa DN nhỏ và DN lớn lỏng lẻo làm giảm khả năng chuyển tiếp lên quy mô lớn hơn.
50% DN tư nhân ‘không có sinh nhật thứ hai’ - Nỗi lo chệch hướng
Hiện tượng DN tư nhân ngừng hoạt động hoặc tuyên bố phá sản cũng có xu hướng tăng, thậm chí còn cao hơn số DN thành lập mới. “Nghiên cứu của NEU cho thấy tỷ lệ DN tư nhân “không có lần sinh nhật thứ 2” lên tới 50%”, GS.TS Ngô Thắng Lợi (NEU) cho hay. Đây là một trong những nguyên nhân Việt Nam không hoàn thành được 1 số chỉ tiêu đặt ra như: có ít nhất 1 triệu DN vào năm 2020, hay 12 DN/1.000 dân, cũng như hạn chế lớn thực hiện mục tiêu hiệu quả kinh doanh.
Các nút thắt cũng là nguyên nhân chính gây hạn chế phát triển khu vực KTTN đã được nêu lên rất nhiều. Trong đó nổi lên là nhận thức về vai trò của KTTN.

Và chính sách thiếu vẫn bao trùm, GS.TS Ngô Thắng Lợi (Đại học Kinh tế Quốc dân), cho biết thêm. Cụ thể, điều đáng nói nhất là sự ưu đãi trong chính sách thuế đối với các DN FDI. Thuế suất thuế thu nhập DN phổ biến từ 12- 20%. Nhưng do có những ưu đãi, nên thuế suất của các DN FDI thường là 5-10%. Một số tập đoàn có dự án lớn mức thuế chỉ là 3-6%.
Thuế và các khoản nộp ngân sách của khu vực FDI chỉ bằng 81% so với khu vực ngoài nhà nước. DN tư nhân có hiệu quả kinh doanh thấp hơn, mức lợi nhuận chỉ chiếm khoảng 35% tổng lợi nhuận của nền kinh tế nhưng tỷ lệ đóng các loại thuế và phí vào ngân sách lại lớn nhất (45,3%) trong 3 khu vực DN.
“KTTN vẫn chưa được bình đẳng trong thực tế”, TS.Trần Văn Thế, Chủ tịch HĐQT Công ty Đầu tư và phát triển InDel cho hay. Thiếu bình đẳng là nguyên nhân quan trọng kìm hãm sự phát triển của DNTN. Việc này cần phải được nhanh chóng loại bỏ.
Để KTTN phát triển, phát huy hết tiềm năng, để Việt Nam có lực lượng DN mạnh, cần có những giải pháp đột phá, chính sách phù hợp.
KTNN là ray, KTTN là đầu tàu, FDI là trợ lực
Trước Tọa đàm, đã có nhiều kiến nghị về chính sách và giải pháp đột phá được đưa ra. Tuy nhiên, tại Tọa đàm này, nhiều đề xuất mới chưa từng được đề cập trong các nghiên cứu trước đây đã được trình bày nhằm giải quyết các vướng mắc đang là rào cản với KTTN.
Đó là: Hoàn thiện tư duy và xác định vị trí của KTTN là động lực quan trọng nhất trong hệ thống kinh tế quốc gia để thực hiện mục tiêu tăng trưởng hai con số;
Đó là cần có mô hình và các chính sách thực hiện mô hình phát triển bao trùm hệ thống DN với mục tiêu bảo đảm cho các loại hình DN (khu vực tư nhân, nhà nước và FDI) đều có cơ hội ngang nhau;
Đó là đề xuất các mô hình và giải pháp gắn kết lực lượng KTTN và các giải pháp tổ chức liên kết DN người Việt ở nước ngoài với DN trong nước và nâng cao năng lực của doanh nhân Việt.
Theo các chuyên gia, hiện chưa có mô hình thích hợp, có hiệu quả để gắn kết các bộ phận cấu thành của lượng KTTN Việt Nam. DN quy mô lớn chưa chủ động được vai trò dẫn dắt trong mô hình phát triển đa tầng lực lượng DN tư nhân Việt Nam.
GS.Ngô Thắng Lợi cho rằng cần nhìn nhận KTTN theo quan điểm hệ thống, trong đó, KTTN của người Việt Nam cần hiểu cách tổng thể là gồm cả DN của Việt kiều có quan hệ kinh tế với đất nước, và gồm cả hộ sản xuất nông nghiệp.
Nếu chia hệ thống kinh tế quốc gia làm 3 bộ phận cấu thành là kinh tế nhà nước (KTNN), KTTN và kinh tế FDI thì: KTTN là động lực chính, quan trọng nhất với vai trò định hướng, dẫn dắt của KTNN và sự hỗ trợ thúc đẩy quan trọng của kinh tế FDI.
Nếu ví nền kinh tế như một đoàn tàu đang đang về đích, thì KTNN là “đường ray dẫn về đích”, định hướng và dẫn dắt đoàn tàu đi trên “đường ray” ấy. KTTN là đầu tầu quyết định tốc độ đến đích. Khu vực FDI là những động lực bổ trợ tiếp thêm lực cho đoàn tầu đi nhanh hơn.
Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với khát vọng trở thành nước có thu nhập cao thì KTTN phải có khả năng đóng vai trò chủ lực quyết định đến quy mô, tốc độ phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế trong đó các “sếu đầu đàn” đóng vai trò dẫn dắt chủ động tổ chức liên kết với các khu vực kinh tế khác để cùng phát triển, GS.Ngô Thắng Lợi nhấn mạnh.