Trong Quy hoạch điện VII, điện từ NLTT dự kiến ở mức 4,5% vào năm 2020 và 6,0% vào năm 2030 so với tổng điện lượng của hệ thống. Về công suất dự kiến 5,6% của tổng công suất vào năm 2020 và 9,4% vào năm 2030.
Tuy nhiên, theo một nghiên cứu do Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID) thực hiện, trước năm 2010, khoảng 400 MW điện sản xuất từ NLTT được nối lưới. Đến năm 2013, tổng công suất lắp đặt của năng lượng tái tạo lên tới khoảng 1.800 MW, chiếm 5.6% tổng công suất lắp đặt và khoảng 3.8% tổng sản lượng điện.
Những năm gần đây tỉ trọng điện sản xuất từ NLTT tiếp tục tăng mạnh, chủ yếu phát triển thủy điện nhỏ (≤ 30 MW). Vào năm 2009, công suất lắp đặt của thủy điện nhỏ chỉ đạt 400 MW và con số này đã tăng lên gấp 4 lần vào cuối năm 2013 đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong các loại năng lượng của Việt Nam. Năm 2013, thủy điện nhỏ chiếm 96% sản lượng điện sản xuất từ năng lượng tái tạo, điện gió chiếm 3% và sinh khối chiếm 1%. Như vậy, thực tế tỷ trọng NLTT trong cơ cấu nguồn điện đã vượt đích trước 7 năm so với dự kiến trong Quy hoạch điện VII.
Điều này cho thấy Quy hoạch điện VII chưa cân nhắc thỏa đáng tới đóng góp của NLTT trong cơ cấu nguồn. Với xu thế công nghệ năng lượng tái tạo ngày càng phát triển và giảm giá thành như hiện nay hứa hẹn cơ hội cho việc thúc đẩy mạnh hơn nữa sự tham gia của nguồn năng lượng này trong việc đáp ứng nhu cầu điện ở Việt Nam trong tương lai.
Cần có chính sách nuôi lớn tiềm năng
Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có nhiều thuận lợi nhất trong khu vực để phát triển nguồn NLTT từ sức gió, năng lượng mặt trời, rác thải... Tuy nhiên, những thuận lợi này vẫn chỉ nằm ở dạng tiềm năng.
Theo các chuyên gia của Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID) và Liên minh năng lượng bền vững Việt Nam (VSEA), có nhiều lý do chủ quan và khách quan dẫn tới thách thức trong phát triển NLTT tại Việt Nam nhưng chủ yếu là Việt Nam thiếu các chính sách đủ mạnh, đồng bộ bao gồm điều tra, thăm dò tiềm năng đến khai thác và sử dụng; thiếu cơ chế tài chính hiệu quả cho việc đầu tư, quản lý và vận hành các dự án năng lượng tái tạo tại các khu vực khác nhau của đất nước, đặc biệt là tại vùng sâu, vùng xa ngoài lưới; thiếu một cơ quan đầu mối tập trung, với chức năng đủ mạnh để điều hành.
Đồng quan điểm đó, các nhà đầu tư cho rằng trở ngại lớn nhất hiện nay là chính sách phát triển, thu xếp nguồn vốn, đặc biệt là giá bán điện. Việc chưa có văn bản quy phạm pháp luật ở mức cao (như luật, nghị định) để khuyến khích nhà đầu tư phát triển NLTT, chưa có chiến lược/quy hoạch cụ thể phát triển nguồn năng lượng này ở cấp quốc gia được xem là thách thức dẫn đến việc chậm triển khai các dự án đã cấp phép và thu hút đầu tư mới.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, chưa có một quốc gia nào có thể thành công trong việc phát triển NLTT mà thiếu sự hỗ trợ của nhà nước, vì giá NLTT bao giờ cũng cao hơn giá năng lượng truyền thống.
[su_note note_color="#e8e2ec"]
Năng lượng tái tạo là năng lượng từ các nguồn tài nguyên được bổ sung liên tục và không thể bị cạn kiệt, chẳng hạn như năng lượng mặt trời, thủy điện, gió, địa nhiệt, đại dương và sinh học. Chúng là một nguồn năng lượng sạch, không gây ô nhiễm không khí, và không đóng góp vào sự nóng lên của khí hậu toàn cầu, hiệu ứng nhà kính. Vì các nguồn năng lượng này là tự nhiên nên chi phí nhiên liệu và bảo dưỡng thấp. Tuy nhiên, một hạn chế chung cho tất cả các nguồn năng lượng tái tạo là rất khó khăn để sản xuất ra một sản lượng điện lớn, đồng thời là công nghệ mới nên chi phí đầu tư ban đầu là rất lớn.[/su_note]
Giang Phan